.

Lễ hội là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. “Lễ” là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện; hoặc những hoạt động nhằm kỷ niệm những sự kiện, những giai đoạn lịch sử quan trọng. “Hội” là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
Bài cùng chuyên đề:
(Ảnh bên: Lễ hội đua bò 7 núi An Giang)
Mục lục:
A. Những ngày lễ được nghỉ
B. Những ngày lễ khác
+ Theo dương lịch
+ Theo âm lịch
C. Hội Văn hoá Dân tộc
D. Lễ hội Việt Nam
E. Lễ hội các dân tộc thiểu số Việt Nam
Các ngày lễ ở Việt Nam được tiến hành ở người Kinh: Đọc tiếp »
Đạo Cao Đài là một tôn giáo vừa độc thần vừa đa thần (?) thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tên gọi “Cao Đài” theo nghĩa đen chỉ “một nơi cao,” nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.”
Để tỏ lòng tôn kính, một số các tín đồ Cao Đài thường gọi tôn giáo của mình là đạo Thầy.
Người phát sinh ra Đạo Cao Đài là ông Ngô Văn Chiêu (còn gọi là Quận Chiêu, từng làm quận trưởng ở Phú quốc). Ông con nhà nghèo khó sinh năm 1878 tại Bình Tây, Chợ Lớn. Ông rất ưa đồng bóng và cầu cơ. Sau khi chiêu tập các đồng chí, ngày 7 tháng 10 năm 1926 nhóm của ông đã xin Thống Đốc Nam Kỳ cho hành đạo. Cũng năm đó, lễ ra mắt tôn giáo, có Lê Văn Trung được phong làm giáo tông, Phạm Công Tắc là Hộ pháp. Giáo tông và Hộ pháp đều có nhiều phụ tá giúp đỡ. Tòa thánh Cao Đài giáo đặt tại Tây Ninh trên 1 diện tích rộng hơn 100 mẫu. (Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử tr. 165).
Tín đồ Cao đài tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ trụ này. Tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được “Đức Cao Đài” trực tiếp chỉ định. Và đạo Cao Đài chính là được Thượng đế trực tiếp khai sáng thông qua Cơ bút các tín đồ với nhiệm vụ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có nghĩa là “Nền đạo lớn phổ độ lần thứ Ba.”
Cao Đài là một tôn giáo mới, có tính dung hợp các tôn giáo lớn mà chủ yếu là Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo. Các tín đồ thi hành những giáo điều của Đạo như không sát sinh, sống lương thiện, hòa đồng, làm lành lánh dữ, giúp đỡ những người chung quanh, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên, và thực hành tình yêu thương vạn loại qua việc ăn chay với mục tiêu tối thiểu là đem sự hạnh phúc đến cho mọi người, đưa mọi người về với Thượng đế nơi Thiên giới và mục tiêu tối thượng là đưa vạn loại thoát khỏỉ vòng luân hồi.
Chức sắc : phải độc thân, ăn chay trường.
Tín đồ gồm 2 hạng : Thượng thừa (chay trường, diệt dục); Hạ thừa (chay từ 2 đến 10 ngày trong 1 tháng).
Kinh nguyện, Lễ vật : Mỗi ngày cầu kinh 4 lần: sáng, trưa, chiều và 12 giờ khuya. Lễ vật: chén trà, chén nước lã, 3 chén rượu (bất cứ rượu gì), hoa tươi, 1 ngọn đèn chong ngày đêm. Lúc cầu kinh thắp thêm 2 ngọn nến.
Cao đài lấy con mắt làm biểu hiệu. Con mắt là Thiên nhãn được vẽ lại trong cảnh bồng lai. Mắt này do Ông (Quận Chiêu) sáng lập đã nhìn thấy 2 lần ở nơi khác nhau trên quận Phú Quốc là nơi Ông làm Quận trưởng.
Cầu cơ là lối duy nhất để hỏi ý Trời do đức Hộ Pháp tại Tây Ninh đứng đầu. (NS. Legio Mariae, tháng 3 năm 1971 tr.33)
Tuy được khai sinh chính thức vào năm 1926, Cao Đài nhanh chóng phát triển về quy mô và số lượng tín đồ. Theo thông tin của Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam, dẫn thống kê năm 2010 của các tổ chức Cao Đài, đạo Cao Đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc, khoảng 2,4 triệu tín đồ (hơn một nửa là nông dân), với 958 tổ chức. Họ đạo cơ sở được công nhận ở 35/38 tỉnh, thành phố có đạo Cao Đài, thành lập 65 Ban đại diện, 1.290 cơ sở thờ tự (hàng năm có khoảng 4 ngàn tín đồ mới nhập môn vào đạo Cao Đài). Ngoài ra, có khoảng 30.000 tín đồ nữa sống ở Hoa kỳ, Âu châu và Úc.
.
Giáo Chủ của Phật giáo Hòa Hảo là Đức thầy Huỳnh Phú Sổ.
Đức thầy Huỳnh Phú Sổ người sáng lập ra Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, sinh vào ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi, nhằm ngày 15 tháng giêng năm 1920 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang) gần biên giới Việt – Miên.
Ngài là người con trai cả của Đức Ông Huỳnh Công Bộ và Đức Bà Lê Thị Nhậm, một hương tộc nổi tiếng và được tôn kính bởi dân chúng khắp vùng.
Sau khi đậu cấp bằng Tiểu học tại Tân Châu, Đức Giáo Chủ vì đau yếu liên miên, đã phải thôi học. Vì gia đình khá giả, Ngài có thể có đủ điều kiện học đến cấp cao, nhưng vì sự bệnh hoạn nói trên, khiến ngài không tiếp tục được. Trong mấy năm từ 15 đến 21 tuổi, Đức Giáo Chủ mắc phải chứng bịnh trầm kha mà không một thầy thuốc Đông Y hay Tây Y nào trị được. Thì ra đó là cơ hội mà các đấng Thiêng Liêng dọn sửa phần xác thịt để Đức Giáo Chủ tiếp nhận những điển quang tinh anh mạnh mẽ sau nầy.
Kịp đến ngày 18 tháng 5 năm Kỹ Mão (1939), một ngày đáng ghi nhớ, một cuộc lễ vô cùng tôn nghiêm được cử hành tại Tổ Đình để cho Đức Giáo Chủ “Đền Linh Khứu sơn trung thọ mạng.” Bấy giờ Đức Giáo Chủ được 21 tuổi. Mặc dù còn bịnh hoạn dây dưa, gương mặt Ngài trông vẫn đẹp đẽ khôi ngô và trí huệ Ngài trở nên dị thường tỏ ngỏ. Bắt đầu từ đó Ngài chữa bịnh thuyết pháp và sáng tác Thi Văn Kệ Giảng.
Từ tháng 5 năm 1936, nhiều bịnh tà, bịnh điên nan y, đã được đưa đến tận làng Hòa Hảo và được chữa khỏi. Ngài đã chữa khỏi muôn vạn dân lành. Vì vậy mà số người đến xin trị bịnh càng lúc càng đông. Kẻ ở xa xôi tận miền Trung hoặc Sài Gòn, Chợ Lớn, cũng như người ở gần gũi miệt Sa Đéc, Cần Thơ đua nhau đến nhờ Ngài cứu chữa.
Phương pháp của Đức Giáo Chủ rất đơn giản. Tùy theo triệu chứng của bịnh nhân, Ngài khi thì nước lã, giấy vàng, lúc thì đưa bông trang, lá bưởi… Một điều đáng để ý là mỗi khi trị bịnh cho người nào là Ngài khuyên họ nên niệm Phật tưởng Trời và vái van Thần Thánh bởi vì :
Thành lòng nước lã nên hồ,
Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban.
Số người được cứu sống rất đông. Nhờ sự cứu bịnh đó của Ngài, Đức Giáo Chủ trong một thời gian ngắn khoảng một năm (1939-1940), đã thu hút được một số đông quay về ngưỡng mộ.
Thế mới hay Ngài đã thực hành phương pháp dự định trước kia là “dùng huyền diệu của Tiên Gia độ bịnh cho kẻ có căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi của Chư Vị với Trăm Quan.” Người ta đã cảm đức và ghi ân, nên đã trùng trùng quy y Phật Pháp.
Sau ngày “chịu lịnh Tây Phương thọ ký,” tức là ngay 18 tháng 5 năm Kỷ Mão, Đức Giáo Chủ ít trầm mặc và nói nhiều hơn xưa. Gặp ai Ngài nói nấy. Ngài nói về sắc diện, tính tình và tương lai của người đối thoại để gần cuối câu chuyện, Ngài khuyên làm lành, lánh dữ và nên tin Phật, xem Kinh.
Thế là trong số thập phương thiện tín tới viếng Giáo Chủ ngoài những người xin bùa, thỉnh thuốc, từ ấy lại có thêm nhiều người đến để, hoặc nghe Ngài giảng giải giáo lý nhiệm mầu, hoặc đọ sức thử tài xem coi sở kiến của Ngài có áp phục được họ chăng. Nhiều học giả đương thời sau một lần gặp Đức Giáo Chủ thì đều phục tài kính đức.
Lại nữa, lời văn của Đức Giáo Chủ có mãnh lực hấp dẫn quần chúng một cách lạ thường nên nhiều thính giả sau khi gặp Ngài liền phát tâm tu hành theo Đạo.
Ai đã từng theo dõi gót Ngài trong cuộc khuyến nông năm 1945, trong vòng 2 tháng với không biết bao nhiêu lý luận khác nhau, đều phải công nhận Ngài là bậc “mồm sông bút sấm.”
Những cuộc thuyết pháp kể trên, nếu cộng với 107 lần chu du khuyến nông thuyết giáo trên gần khắp miền Nam năm 1945, chúng ta có thể nói Ngài đã trải qua trên một ngàn lần khuyến thuyết quan trọng với hằng ngàn đề tài khác biệt. Và nhờ những cuộc thuyết pháp này mà người mộ đạo quy căn, ngày càng đông thêm.
Nhưng công đức vĩ đại lớn nhất của Đức Huỳnh Giáo Chủ trong việc truyền giáo là việc viết ra Kệ Giảng. Nhờ Kệ Giảng đó mới được phổ truyền một cách sâu rộng chủ trương canh tân Phật Giáo của Ngài và nhờ đó mà hằng triệu người mộ đạo và quay về với chân tính, tự tâm.
Những tác phẩm của Đức Giáo Chủ viết ra, phần nhiều thuộc thể văn vần. Ngài viết, dầu tản văn hay vận văn, điều đáng để ý là khi cầm bút thì cứ viết thẳng một mạch, không dùng giấy nháp. Có thể kể những tác phẩm trường thiên sau đây của Đức Giáo Chủ:
1. “Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm,” tức quyển nhứt, văn lục bát, dài 910 câu xuất bản lần đầu năm 1939.
2. Kệ Dân của Người Khùng,” tức quyển nhì, văn thất ngôn trường thiên, dài 846 câu, xuất bản lần đầu năm 1939.
3. “Sấm Giảng,” tức quyển ba, văn lục bát dài 612 câu, xuất bản lần đầu năm 1939.
4. “Giác Mê Tâm Kệ,” tức quyển thứ tư, văn thất ngôn trường thiên, dài 846 câu, xuất bản lần đầu năm 1939.
5. “Khuyến Thiện,” tức cuốn thứ năm, đoạn nhứt và đoạn chót viết bằng lối lụt bát, đoạn giữa viết bằng lối thất ngôn, dài 756 câu, xuất bản lần đầu năm 1942.
6. “Tôn Chỉ Hành Đạo.” Quyển này viết bằng văn xuôi, xuất bản lần đầu năm 1945. Tuy văn xuôi, quyển này có một đặc sắc là giản dị mà lưu loát, âm hưởng du dương nhịp nhàng.
Từ năm 1943, Ngài tham gia hoặc làm cố vấn một số phong trào chính trị. Năm1946, Ngài cùng với những người lãnh đạo Hòa Hảo thành lập tổ chức Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là “Đảng Dân xã” bao gồm cả lực lượng võ trang nòng cốt trong Hòa Hảo ở một số tỉnh miền Tây.
Ngày 16 tháng 4 năm 1947 (tức ngày 25 tháng 2 nhuần năm Đinh Hợi), chi đội trưởng Vệ Quốc Quân Bửu Vinh và Thanh Tra Chánh Trị miền Tây Nam Bộ Trần Văn Nguyên, âm mưu mời Ngài đến họp và hãm hại Ngài tại ngọn rạch Đốc Vàng Hạ, nay thuộc xã Tân Phú, tỉnh Đồng Tháp. Trong lúc họp, Bửu Vinh đã cho quân của Việt Minh phục kích và giết các tự vệ quân của Đức Giáo Chủ. Sau biến cố này không một ai rõ tin về Ngài nữa (!)
Liền ngày sau, Việt Minh đã phát động một chiến dịch đại quy mô nhằm tiêu diệt tất cả các chức sắc và cán bộ PGHH.
Kể từ ngày Đức Giáo Chủ ra đi (1947) cho đến nay, đoàn thể PGHH vẫn một lòng tin tưởng Ngài không thể bị hãm hại; và Ngài sẽ trở về để hoàn tất sứ mạng thiêng liêng tại Hội Long Hoa đúng như những lời tiên tri trong kinh giảng.
Nghi lễ
Đạo Hoà Hảo chủ trương tu tại gia hơn là đi lễ chùa. Đạo Hoà Hảo chủ trương giúp đỡ người nghèo hơn là cúng tiền xây chùa hay tổ chức lễ hội tốn kém. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Họ cho đó là những sự phung phí thay vì dùng tiền đó dể giúp đỡ những người thực sự cần đến.
Đạo Hòa Hảo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và cả việc đời. Không có nơi thờ công cộng, trung tâm của đạo ở làng Hòa Hảo gọi là Tổ đình cũng chỉ mang tính gia tộc. Đạo Hòa Hảo không xây dựng chùa chiền có tượng ảnh thờ. Vật thờ của đạo Hòa Hảo hiện nay là tấm vải có màu nâu (dà) sẫm (trần điều) trên bàn thờ (còn gọi là trang thờ) đặt ở gian chính giữa và xây một bàn thông thiên ở sân trước của nhà. Việc thờ phụng này thể hiện tư tưởng của Phật giáo: “Phật tại tâm, tâm tức Phật.” Đạo Hòa Hảo thờ Phật, ông bà tổ tiên và các anh hùng tiên liệt có công với đất nước, không thờ các thần thánh nếu không rõ nguyên nhân.
Lễ vật khi thờ phúng cũng rất đơn giản chỉ có hoa, nuớc lạnh tinh khiết. Ban đêm đốt đèn ở bàn thờ trong nhà và bàn thờ thông thiên. Khi thờ tín đồ chỉ đọc sấm giảng và kinh Phật do Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ soạn với mục đích tĩnh tâm và cầu vãng sanh Tịnh Độ. Kinh đọc sáng và chiều dài độ hai phút, chay lạt: 4 ngày: rằm, mồng 1, 14 và 29. Nhập đạo do 2 tín đồ giới thiệu với Ban trị sự.
Tổ đình
Ngôi nhà đầu tiên có tên Tổ đình, là nơi sinh trưởng Huỳnh Phú Sổ, là nơi khai sáng đạo Phật giáo Hoà Hảo (xưa thuộc làng Hoà Hảo, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Sau này các ngôi nhà thờ phụng của Phật giáo Hòa Hảo đều gọi là Tổ đình. Tổ đình có một Ban phụng tự lo lắng về các khoản nhu cầu cần có để duy trì, bảo trì Tổ đình và các cơ quan của Đức Ông để lại như là: Cứu Tế Viện, Thư Viện, Hành Hương Lữ Viện, Đài Chiến Sĩ Hòa Hảo, v.v… Ban phụng tự không có quyền hạn gì về việc lãnh đạo tôn giáo.
PGHH có khoảng 2 triệu tín đồ sống tập trung tại các tỉnh miền Hậu Giang.
Trần Văn Giang (Tháng 06.2011)
Thiên Chúa giáo còn gọi là Công giáo do Đức Giêsu Kitô (Jesus Christ) là Giáo Chủ. Tuy du nhập vào Việt Nam mới hơn 300 năm; nhưng phải khách quan mà nói Thiên Chúa giáo là một tôn giáo có tổ chức quy củ và khoa học nhất.
Đức Giêsu Kitô khai sáng Thiên Chúa giáo tại nước Do Thái (Israsel) cách nay khoảng 2000 năm. Thiên Chúa giáo còn được gọi là đạo Kitô Giáo hay đạo Kitô (do chữ “Christ” phiên âm ra là “Kitô”).
Thiên Chúa giáo tin thờ Đức Chúa Trời duy nhất; Đấng làm vua cõi trời, Đấng quyền phép và nhân từ, Đấng được tin là toàn năng đã làm nên mọi sự.
Thiên Chúa giáo tin vào Kinh thánh (Cựu và Tân ước), dưới sự hướng dẫn của Giáo hội Công giáo La mã, đứng đầu là Đức Giáo hoàng. Cộng tác với Đức Giáo hoàng là hàng giáo phẩm (Hồng y, Giám mục, Linh mục, Phó tế).
Thánh Kinh (Cựu và Tân ước) là những sách được viết bởi người trần, nhưng qua sự linh ứng của Thiên Chúa. Tín điều căn bản hàng đầu là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất làm chủ toàn thể vũ trụ; và theo Thánh Kinh, Ngài diễn tả mình là Đấng Tự Hữu (Ego sum qui sum). Đọc tiếp »
Lão giáo một trong Tam giáo đầu tiên du nhập vào Việt Nam qua các quan cai trị người Trung hoa trong thời kỳ Bắc thuộc, bị đô hộ.
Người sáng lập Lão giáo là Lão Tử. Lão Tử chỉ là danh hiệu. Tục truyền khi Lão Tử khi mới sinh đầu đã bạc cho nên có hiệu là Lão Tử. Theo Phan Kế Bính, Lão Tử, còn gọi là Thái Thượng Lão quân, tên thật là Lý Nhĩ tự là Bá Dương hiệu là Lão Đam người nước Sở, sinh năm 570 Trước Công Nguyên – TrCN – (năm thứ 3 đời vua Định Vương nhà Đông Chu – hơn Khổng Tử chừng 20 tuổi). Cũng có sách lại ghi là Lão Tử sinh vào năm thứ 10 đời vua U Vương nhà Tây Chu (thế kỷ thứ 8 trước công nguyên). Năm sinh và năm mất của Lão Tử vẫn còn được tranh cãi.
Lão Tử soạn ra “Đạo Đức Kinh” gồm năm ngàn câu, chú ý theo sự tu thân tích đức theo tự nhiên thanh tĩnh để được siêu thoát. Đạo là nguyên lý vô hình vố sắc, đã sinh ra âm dương trời đất muôn vật muôn loài theo luật tuần hoàn mà biến cải tự nhiên; Nghĩa là muôn việc cứ để cho biến hóa tự nhiên (không cần phải làm gì thêm). Con người muốn được tiêu diêu thanh thản thì không cần phải lo lắng, nghĩ ngợi. Có nhiều người nói là Lão Tử là một triết gia hơn là một giáo chủ; và tôn chỉ của Lão Tử chỉ là một học thuyết, không phải là giáo điều.
Lão Tử lấy sự “thanh tĩnh, tự nhiên” làm tôn chỉ. Đây một ý tưởng rất cao; người thường khó mà hiểu thấu đáo được: Về tình người và tình đời, cứ lấy cái “thanh tịnh vô vi” đối với cuộc đời. Không để một chút tơ vương gì của cuộc đời xâm phạm vào cái thú ung dung, nhàn nhã, khoan thai của mình. Việc đời xảy đến đâu đối phó đến đó, không cần phải hao tổn thể lực và tinh thần. Cứ để tự nhiên thì mọi chuyện sẽ yên ổn, đâu vào đó, thiên hạ sẽ “vô vi an trị” (vô vi mà an thiên hạ). Sự tiêu cực này bị Nho giáo bác bỏ. Những người phóng khoáng, ưa thanh tĩnh, biết nhẫn nhục đều hợp với đạo Lão. Đọc tiếp »
Nếu nói là chỉ có một “đạo thuần túy” Việt Nam, và lâu đời nhất thì phải kể “Đạo Thờ Thần”. Đạo này đã có từ lúc có người Việt Nam.
(Ảnh bên: Bà chúa Liễu Hạnh trong tranh thờ dân gian).
Người Việt nguyên thủy tin tưởng là có thần linh ở khắp mọi nơi: trong nhà, ngoài sân, ngoài vườn, bờ ruộng, trên ngọn cây, gốc cây, dưới lòng sông… Người Việt thờ phụng và tin tưởng tất cả các sức mạnh này. Đạo thờ Thần (cũng như thờ cúng tổ tiên) đáng lẽ ra không nên liệt kê là một tôn giáo. Bởi lẽ không có giáo chủ, cũng như không có giáo điều (thật ra đạo thờ thần có nhiều giáo chủ: mỗi vị thần là một giáo chủ?) Có nhiều sự tương tự, tượng hợp giữa đạo thờ thần và đạo thờ cúng tổ tiên. Chẳng hạn, chính Ông bà Tổ Tiên được kính bái như những vị thần che chở cho con cháu, gia tộc. Về Nghi thức, cũng có nhiều điểm giống nhau: Khi cúng một vị thần trong nhà thì gia trưởng là chủ lễ, tại làng xã thì có các vị hương xã; hoặc trong nước thì có vua hay quan thay mặt vua tế lễ; không cần đến một vị tu sĩ tôn giáo.
Xin được lần lượt kể các vị thần linh trong nhà, trong làng và các vị thần chung cho cả nước mà người Việt thờ cúng: Đọc tiếp »
Nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương (mồng 10 tháng 3), trong lúc ngồi nhâm nhi ly cà phê ở C’est moi, một người bạn tôi kể rằng: “Hôm qua con gái mình mới đi học về, đột nhiên hỏi: “Ba ơi, họ của vua Hùng đầu tiên của nước mình là họ gì?” – làm mình ngớ người ra, không biết trả lời thế nào…”. Hắn đem chuyện kể lại, làm tôi cũng ngạc nhiên vì … mình cũng không biết trả lời ra sao? Không lẽ là họ… Hùng (vì là Hùng Vương)? Sẵn đang có Wifi nên tôi lên mạng tìm hiểu thử. Lướt qua vài trang thấy có một số câu trả lời như sau:
Bài cùng chuyên đề:
Chị đi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em trông
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
- Nguyễn Bính
(Cảm xúc khi nghe cô bé Phạm Quỳnh Anh hát bài HELLO VIÊT NAM)
(Source: http://quechoa.info)
Tôi năm nay U60, sinh ra và lớn lên dưới mái trường XHCN, đã du học ở Đông Âu trên chục năm. Luôn tự hào mình là người Việt Nam trong suốt khoảng hơn bốn mươi năm đầu cuộc đời mình. Chưa bao giờ nghi ngờ đạo đức nhân đạo và tính hướng thiện của người Việt, tức của tổ tiên mình. Thời thanh niên bên trời Âu tôi luôn từng tự hào tự gọi mình là Việt Cộng, từng là chủ tịch Hội sinh viên Quốc tế toàn Balan nơi tôi học được khoảng 1 tháng trước khi bị Đại sứ quán VN tại Vacsava gọi lên bắt từ chức xuống thành Phó CT phụ trách Học tập …
Ngày Xuân trai gái trong thôn
Sang đò trẩy hội trống dồn năm canh
Đò sang lặng gió không trành
Mấy cô nghiêng bóng soi mình sửa ngôi.
(Đò chiều – Xuân Thiêm)
Xem thêm:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Để quên chiếc áo trên cành hoa sen…”
- Ca dao VN
Xưa nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân Việt, là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Kiến trúc đình làng vì vậy mang đậm dấu ấn văn hóa, độc đáo và tiêu biểu cho kiến trúc điêu khắc Việt truyền thống.
Xem thêm:
(Source: hanoi.vnn.vn)
Từ bao đời nay, mỗi người Việt đều coi mái đình, cây đa như một biểu tượng của làng quê truyền thống. Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Không phải ngẫu nhiên mà những bậc cao niên, những người đã có nhiều thành tựu ở một lĩnh vực nào đó thường được đồng nghiệp và xã hội coi là “cây đa, cây đề”, biểu tượng cho sức làm việc quên mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú.
Cũng với ý nghĩa trường tồn ấy, cây đa xuất hiện trong ca dao như một nhân chứng của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của đất trời, đôi khi là cả một vòng đời người.
Văn hóa là gì?
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v… Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.
(Nguon: vae.org.vn)
Trong mỗi nền văn hoá bao giờ cũng bao gồm những dạng thức văn hoá khác nhau. Mỗi dạng thức đều có diện mạo, kết cấu và đặc trưng riêng, phù hợp với mỗi loại cộng đồng người, điều kiện cảnh quan môi trường và những hoàn cảnh kinh tế - xã hội riêng. Các dạng thức văn hoá xen lồng vào nhau, góp phần tạo nên diện mạo văn hoá của từng dân tộc, quốc gia.
(Ngô Đức Thịnh - GS. TS. Viện Nghiên cứu Văn hoá VN)
(Nguon: Vietnam Net - DoanDucThanh’s Blog)
Hoa Sen có nhiều khả năng sẽ được lựa chọn làm Quốc hoa của Việt Nam bởi đáp ứng được nhiều tiêu chí: được trồng ở mọi miền đất nước, thể hiện bản sắc, cốt cách của dân tộc, hình thức bền, đẹp…
Vấn đề lựa chọn Quốc hoa đã được đặt ra từ lâu. Quốc hoa Việt Nam sẽ là biểu tượng văn hóa được dùng trong các ngày lễ, Tết, sinh hoạt hàng ngày, giao lưu gặp gỡ… Đặc biệt là dùng trong giao lưu, đối ngoại quốc tế.
Tuy nhiên, căn cứ khoa học nào để lựa chọn một loài hoa biểu trưng cho Việt Nam?
Ngày 16/6/2010, Bộ Văn hóa, Thông tin & Du lịch đã tổ chức hội thảo “Quốc hoa Việt Nam: sự cần thiết tôn vinh và tiêu chí lựa chọn”. Đây là hội thảo tiền đề để làm căn cứ khoa học xây dựng các tiêu chí lựa chọn một loài hoa biểu trưng cho đất nước.